Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc cả hai. Khi ly hôn, không chỉ các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng phát sinh từ khi kết hôn chấm dứt mà tài sản chung của vợ chồng cũng sẽ được chia theo yêu cầu của vợ, chồng. Về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể như sau:

1. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cho phép vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận. Theo quy định tại Điều 47 Luật Hôn nhân và gia đình: “Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.”

Theo đó, nội dung thỏa thuận bao gồm: tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình; điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản; nội dung khác có liên quan.

Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Công ty Luật Số 1 Hà Nội
Hotline: 096.128.9933

Như vậy, nếu lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận, thì việc thỏa thuận phải được thể hiện rõ bằng văn bản ngay trước khi kết hôn. Việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo những thỏa thuận đó. Nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều 59 và tại các Điều 60. 61. 62, 63 và 64 của Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết.

2. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo luật định

– Vợ chồng tự thỏa thuận phân chia:

Cũng là một sự thỏa thuận chia tài sản chung khi ly hôn nhưng đây là trường hợp vợ chồng thỏa thuận chia khi lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định. Sự thỏa thuận này phải phù hợp với các nguyên tắc của Luật Hôn nhân và gia đình.

Trong trường hợp chế độ tài sản theo luật định, pháp luật vẫn tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản của vợ chồng và cho phép vợ chồng thỏa thuận phân chia. Đồng thời, pháp luật hiện hành cũng không quy định việc thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng phải có sự ghi nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Tuy nhiên, trong thực tiễn không phải trường hợp nào vợ chồng đều có thể cùng nhau thỏa chia tài sản chung một cách thuận lợi và đúng ý nghuyện. Do vậy, pháp luật cũng quy định vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

– Trường hợp yêu cầu Tòa án giải quyết:

Thứ nhất, khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn như sau:

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

Quy định này đã dược hướng dẫn cụ thể tại Khoản 4, Điều 7 Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP, trường hợp áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định để chia tàn sản của vợ chồng khi ly hôn thì tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi nhưng có tính đến yếu tố sau đây để xác định tỷ lệ tài sản mà vợ chồng được chia:

  • Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng: là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi kết hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình, của vợ, chồng.
  • Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung: là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng, trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đống góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.
  • Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo ra thu nhập: là việc chia tài sản chung của vợ chồng phải bảo đảm cho vợ, chồng đang hoạt động nghề nghiệp được tiếp tục hành nghề; cho vợ, chồng đang hoạt động sản xuất, kinh doanh được tiếp tục được sản xuất, kinh doanh để tạo thu nhập và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản chênh lệch. Việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và hoạt động nghề nghiệp không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và các thành viên trong gia đình.
  • Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng: là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dễn đến ly hôn. Trường hợp người chồng có hành vi bạo lực gia đình, không chung thủy hoặc phá tán tài sản thì khi giải quyết ly hôn Tòa án phải xem xét yếu tố lỗi của người chồng khi chia tài sản chng của vợ chồng để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của vợ và con chưa thành niên.

Quy định nêu trên cũng đặt ra yêu cầu đối với các cơ quan có thẩm quyền khi giải quyết việc chia tài sản chung cần phải tiến hành điều tra, xác minh, tìm hiểu mọi vấn đề liên quan đến tài sản, công sức đóng góp cũng như hoàn cảnh sống của gia đình và các bên để phân chia một cách hợp lý và công bằng.

Thứ hai, tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

Thứ ba, tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

Thứ tư, Tòa án phải xem xét đến việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng đã có những hướng dẫn cụ thể đối với một số trường hợp như: chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình; chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn; chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh tại Điều 61, 62 và 64. Ngoài ra, vì mục đích nhân đạo, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn: “Nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng đã đưa vào sử dụng chung thì khi ly hôn vẫn thuộc sở hữu riêng của người đó; trường hợp vợ hoặc chồng có khó khăn về chỗ ở thì được quyền lưu cư trong thời hạn 06 tháng kể từ ngày quan hệ hôn nhân chấm dứt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.”

Trên đây là nội dung tư vấn của Công ty Luật Số 1 Hà Nội về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Chúng tôi chuyên cung cấp dịch vụ pháp lý chuyên nghiệp, nhanh chóng cho các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước có vướng mắc các vấn đề pháp lý liên quan.

Mọi thắc mắc của Quý khách hàng xin vui lòng liên hệ với theo thông tin sau:

  • Điện thoại: 024.6656.9880 – Hotline: 096.128.9933
  • Email: luatso1hanoi@gmail.com
  • Fanpage: Công ty Luật Số 1-HN
  • Địa chỉ: Tầng 5, Tòa nhà số 33 Láng Hạ, phường Thành Công, quận Ba Đình, TP.Hà Nội