Có làm được ” sổ đỏ” khi căn hộ chung cư đã bị thế chấp ngân hàng?

LSVNO – Hỏi: Anh trai tôi đăng ký mua căn hộ chung cư ở TP. Hồ Chí Minh, đã đóng đầy đủ tiền và đang chuẩn bị vào ở. Tuy nhiên, vừa qua anh trai tôi được thông báo là không làm được sổ hồng cho căn hộ, nguy cơ sẽ bị mất trắng tiền vì chủ đầu tư dự án đã đem thế chấp đất dự án, thế chấp căn hộ chung cư đã bán và hiện chưa giải chấp cho ngân hàng. Tôi không hiểu sao ngân hàng lại nhận thế chấp chung cư này vì các căn hộ đã được bán cho khách hàng. Chúng tôi phải làm gì để giữ lại căn hộ đã mua?

Mai Tiến Hùng

ls-thu-5941c84065993

Luật sư Phạm Thị Thu – Giám đốc Công ty Luật số 1 Hà Nội

Luật sư trả lời:

Điều 147 Luật Nhà ở năm 2014 quy định: “Chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở được thế chấp dự án hoặc nhà ở xây dựng trong dự án tại tổ chức tín dụng đang hoạt động tại Việt Nam để vay vốn cho việc đầu tư dự án hoặc xây dựng nhà ở đó; trường hợp chủ đầu tư đã thế chấp nhà ở mà có nhu cầu huy động vốn góp để phân chia nhà ở theo quy định của pháp luật về nhà ở hoặc có nhu cầu bán, cho thuê mua nhà ở đó thì phải giải chấp nhà ở này trước khi ký hợp đồng huy động vốn góp, hợp đồng mua bán, thuê mua nhà ở với khách hàng, trừ trường hợp được bên góp vốn, bên mua, thuê mua nhà ở và bên nhận thế chấp đồng ý.”

Theo quy định vừa trích dẫn thì việc chủ đầu bán căn hộ khi chưa giải chấp đồng thời không có sự đồng ý của người mua căn hộ chung cư và ngân hàng là trái quy định của pháp luật. Thế chấp tài sản ở ngân hàng là một hình thức huy động vốn, lúc này tài sản đang thuộc quyền quản lý của ngân hàng.

Trong trường hợp này để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình thì người mua nhà cần phải thực hiện các việc sau:

– Những người đã mua nhà nên làm việc với chủ đầu tư, yêu cầu họ cung cấp văn bản của cơ quan chức năng hoặc văn bản của ngân hàng, nơi chủ đầu tư thế chấp dự án, chứng minh căn hộ của họ không bị thế chấp. Còn chuyện chủ đầu tư thế chấp những phần còn lại, theo quy định, không phải là yếu tố đáng quan ngại.

– Trường hợp căn hộ của họ bị thế chấp, khách hàng yêu cầu chủ đầu tư giải quyết với ngân hàng, nếu cần thiết có thể tố cáo buộc chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm như hoàn trả tiền và bồi thường thiệt hại.

– Trong trường hợp người mua đã thực hiện tất các các biện pháp nêu trên nhưng chủ đầu tư vẫn không giải quyết thì có thể khởi kiện ra Tòa án để được xem xét, giải quyết.

Luật sư Phạm Thị Thu
(Công ty Luật Số 1, Hà Nội)

http://lsvn.vn/tro-giup-phap-ly/tu-van/khong-lam-duoc-so-do-khi-can-ho-chung-cu-da-bi-the-chap-ngan-hang-23245.html