Chấm dứt quan hệ vợ chồng được quy định như thế nào?

Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định về chế độ hôn nhân gia đình, chuẩn mực pháp lý để ứng xử giữa các thành viên trong gia đình. Mặt khác, luật cũng quy định về việc chấm dứt quan hệ vợ chồng khi vợ hoặc chồng yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn

Cụ thể, vợ chồng khi ly hôn có quyền tự thỏa thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong đó có cả việc phân chia tài sản. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được mà có yêu cầu thì Tòa án phải xem xét, quyết định việc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận hay theo luật định.

Thứ nht: Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về thẩm quyền giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 bao gồm: Tranh chấp chia tài sản khi ly hôn, chia tài sản sau khi ly hôn, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

– Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

– Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

– Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

– Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

Căn cứ theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân gia đình 2014 thì nguyên tắc chung tài sản chung vợ chồng được chia đôi. Tuy nhiên, khi chia tài sản chung vợ chồng Tòa án có xem xét các yếu tố hoàn cảnh gia đình, công sức đóng góp vào việc tạo lập tài sản, bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất kinh doanh, lỗi của mỗi bên, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ con chưa thành niên hoặc không có tài sản để tự nuôi mình. Tài sản riêng của vợ chồng thì thuộc quyền sở hữu của người đó. Thực tế các tranh chấp chia tài sản khi ly hôn, người vợ không có thu nhập thường được xem xét bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Quy định cụ thể các yếu tố tính đến khi chia tài sản chung vợ chồng tại Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thông tư liên tịchhướng dẫn thi hành một số quy định của luật hôn nhân và gia đình . Cụ thể yếu tố “Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng” là tình trạng về năng lực pháp luật, năng lực hành vi, sức khỏe, tài sản, khả năng lao động tạo ra thu nhập sau khi ly hôn của vợ, chồng cũng như của các thành viên khác trong gia đình mà vợ chồng có quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Bên gặp khó khăn hơn sau khi ly hôn được chia phần tài sản nhiều hơn so với bên kia hoặc được ưu tiên nhận loại tài sản để bảo đảm duy trì, ổn định cuộc sống của họ nhưng phải phù hợp với hoàn cảnh thực tế của gia đình và của vợ, chồng. “Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung” là sự đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, công việc gia đình và lao động của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn. “Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” là lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn. Khi xem xét chia tài sản Tòa án xem xét đến các yếu tố trên khi chia tài sản.

Giá trị tài sản chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ, chồng được xác định theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết sơ thẩm vụ việc.

Như vậy, đối với việc chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn thì đều có xem xét công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì và phát triển tài sản. Về nguyên tắc thì trong thời gian chung sống, nếu không có chứng cứ gì khác thì về nguyên tắc tài sản phát triển đều được chia đôi (công việc nội trợ và công việc khác liên quan đến đời sống chung cũng được coi như lao động có thu nhập). Tuy nhiên khi phân chia cũng cần xem xét đến người đã tạo ra nguồn tiền để phát triển tài sản, từ đó phân chia cho phù hợp. Bên có công sức đóng góp nhiều hơn sẽ được chia nhiều hơn.

Thứ hai: Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình.

Nhiều trường hợp hai vợ chồng sống cùng bố mẹ nên khi ly hôn có yêu cầu chia tài sản đóng góp trong tài sản chung của gia đình. Cụ thể về nguyên tắc chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, khi đưa ra yêu cầu chia tài sản bên đưa ra yêu cầu có nghĩa vụ chứng minh công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, phát triển khối tài sản chung. Ví dụ: thu nhập hàng tháng, hoặc đóng góp khi xây dựng nhà… Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia theo quy định.

Thứ ba: Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn

Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó.  Việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau:

  • Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật này.

Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng;

– Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này;

– Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

– Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai.

Việc chia quyền sử dụng đất khi ly hôn do hai bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì do Tòa án giải quyết. Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai.

Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung vợ chồng. Trong trường hợp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên 1 bên vợ hoặc chồng thì tranh chấp được giải quyết theo quy định, nếu không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ chồng đang có là tài sản riêng thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

Thứ tư: Về nghĩa vụ tài sản đối với người thứ ba khi ly hôn

Theo quy định tại Điều 60 Luật Hôn nhân gia đình 2014 về Giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba khi ly hôn

Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác.

Trong trường hợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các Điều 27, 37 và 45 của Luật này và quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết.

Căn cứ theo quy định trên nếu nghĩa vụ đối với người thứ ba do hai vợ, chồng cùng ký nhận nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì hai vợ chồng vẫn có trách nhiệm thực hiện sau khi ly hôn. Trường hợp một người vay người còn lại không biết và mục đích khoản vay nhằm mục đích riêng thì nghĩa vụ tài sản do người vay chịu trách nhiệm.

Thứ năm: Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh

Luật Hôn nhân gia đình 2014, Điều 64. Chia tài sản chung của vợ chồng đưa vào kinh doanh. Vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác.

Với quy định trên, nếu có vốn góp trong công ty, khi ly hôn có quyền thỏa thuận chia hoặc đề nghị Tòa án giải quyết. Người đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng.

Những quy định về chia tài sản khi ly hôn làm giảm những tranh chấp giữa vợ và chồng khi ly hôn. Những nguyên tắc chia tài sản chung có tính đến quyền và lợi ích hai bên. Khi giải quyết chia tài sản khi ly hôn, Tòa án phải xem xét để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Lưu ý: Ý kiến của Luật sư, văn bản pháp luật được trích dẫn trong bài tư vấn nêu trên có thể đã hết hiệu lực tại thời điểm tham khảo bài viết. Nếu bạn còn vướng mắc hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác vui lòng liên hệ đến Luật sư tư vấn trực tiếp TỔNG ĐÀI TƯ VẤN LUẬT 1900 966 980 hoặc Email: luatso1hanoi@gmail.com để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời!